Suốt ngày hôm sau, Sói Xám trở nên căng thẳng và quãng giữa trưa, đến lượt Kazan cũng đánh hơi được trong không khí cái điềm mà bạn nó đã nhận thấy trước nó khá lâu. Cái mùi đó cứ tăng dần lên và vào khoảng giữa buổi chiều, mặt trời bị lớp khói che phủ.
Nhung cau noi hay ve tinh yeu buon Kazan tìm cách để trốn thoát. Nó chỉ cần bơi qua một trong các con sông đang quây quanh một góc nhung cau noi hay ve tinh yeu buon ngọn lửa. Đối với nó đó là chuyện dễ vì chó không sợ nước... Nhưng bạn nó thì lùi bước, hoảng sợ mỗi lần chân chạm nước. Như các con vật cùng loài, Sói Xám thích đối chọi với lửa hơn, cho dù có bị chết thiêu ở bờ sông.
Để thúc giục bạn theo mình, Kazan nhung cau hay ve tinh yeu nhảy khoảng hơn mười hai lần xuống nước và bắt đầu bơi.
Nhưng Sói Xám vẫn bướng bỉnh ở lại trên bờ.
Thế là chúng bắt đầu nghe thấy phía xa xa tiếng lửa réo ầm ầm. Lửa đuổi các con vật ra phía trước. Hươu, nai, hoẵng lao mình xuống sông và chẳng mấy chốc đã an toàn ở bờ bên kia.
Sau đó, nhiều con thú khác cũng như Sói Xám sợ nước nên chẳng mấy chốc trên một doi cát nhỏ chen chúc xô đẩy nhau vô số loài thú không thể hay không dám nhảy xuống nước.
Thân mình nước chảy ròng ròng, hơi thở hổn hển, gần như ngạt vì nóng và vì khói, Kazan đứng ép mình vào nhung cau noi ve tinh yeu Sói Xám. Từ lúc này, chỉ còn một chỗ duy nhất có thể trú chân là doi cát nhô ra vài mét giữa dòng sông. Nó nhanh chóng dìu người bạn mù lòa của mình đến đấy.
Sói Xám và Kazan tiến đến mép ngoài cùng của doi cát và cố tự bảo vệ bằng cách cuộn tròn mình và mõm giấu trong lớp lông....Lúc này, đám cháy đã đến rất gần rồi. Tiếng lửa gào rít nghe như tiếng thác trào. Thỉnh thoảng, người ta nghe thấy tiếng răng rắc của một thân cây đổ nhào xuống đám than hồng. Bầu trời đầu tro và tia lửa. Đã hai lần, Kazan phải vùng dậy rũ lông để vẩy hết những tàn lửa nóng bỏng rớt nhung cau noi hay ve tinh yeu xuống mình và thiêu đốt nó như một thanh sắt nung đỏ.
Gần sát mặt nước, những bụi cây rậm mọc ở ven bờ ngăn cản tốc độ của ngọn lửa và hơi nóng có giảm xuống chút ít. Nhưng Kazan và bạn mình buộc phải đợi khá lâu mới có thể đứng dậy và thở thoải mái hơn. Chúng hiểu rằng mảnh đất nơi chúng trú chân đã cứu sống chúng. Toàn bộ khu vực nằm giữa hai con sông đã đen kịt một màu và mặt đất thì nóng rãy.
Đêm đó, nhung cau noi tinh yeu hay mặt trăng trông thật khủng khiếp, cứ như thể một vết máu bắn lên nền trời và trong suốt nhiều giờ, khi mặt trăng treo lơ lửng trên đầu, chúng không nghe thấy ngay cả tiếng cú kêu để chứng tỏ rằng sự sống vẫn tồn tại trên mặt đất này, nơi hôm qua còn là thiên đường thực sự cho muông thú... Kazan biết rằng không còn gì để săn lùng nơi đây và nó tiếp tục đi; chỉ đến khi bình minh, chúng mới phát hiện ra một đầm nước nhỏ dọc theo con sông. Những con hải ly đã đắp một con đê bắc ngang qua dòng nước, nhờ đó đôi bạn có thể sang được bờ bên kia, nơi ngọn lửa không chạm đến. Chúng đi theo hướng Tây trong một ngày một đêm và cuối cùng đến được vùng đầm lầy và rừng cây chạy dọc theo vùng Water-found.
Cùng nhung cau hay ve tinh yeu lúc, trong một cái trạm của vịnh Hudson, ở phía Đông, một anh chàng lai Pháp, người mảnh khảnh, da ngăm đen, tên là Henri Loti, vốn là một tay săn mèo rừng nổi tiếng nhất vùng cũng đến đấy. Lần theo dấu vết của những con mồi tương lai, anh tìm thấy rất nhiều dấu ở ven bờ vùng Water-found. Henri dựng một cái chòi săn ở đấy, sau đó quay lại trạm để chờ cho đến khi những bông tuyết đầu tiên rơi để quay lại vùng này với xe kéo, thực phẩm và bẫy.
Vào thời điểm đó, một người đàn ông khác đang chậm rãi tiến đến vùng này - đó là một giáo sư động vật học đang đi thu thập tài liệu để viết một cuốn nhung cau noi hay ve tinh yeu sách về tư duy của các loài thú.Hoang. Ông tên là Paul Weyman, và ông đã trao đổi với Henri Loti để mùa đông đến sống cùng anh một thời gian. Trong hành trang của mình, ông có rất nhiều giấy để ghi chép, một máy ảnh và bức chân dung một thiếu nữ. Vũ khí độc nhất của ông là con dao nhíp.
Trong thời gian đó, Sói Xám và Kazan cũng phát hiện thấy ở chính giữa đầm lầy rậm rạp một hang ổ chúng đang tìm cho mùa đông. Cái hang này nằm cách căn chòi của Henri Loti khoảng chục cây số.